Đoán biết gà hay qua tiếng gáy vô cùng quan trọng, cách này giúp anh, em nhận ra chiến kê hay chỉ qua vài tiếng gáy, hơn nữa tiếng gáy của gà cũng có thể biết đâu là thần kê, là linh kê.
Xem thêm:
1) Số tiếng:
Được xếp hạng “thần kê” bởi không có lưỡi, nên khi gáy phát ra âm thanh kỳ lạ, giật ba bốn tiếng sau cùng:
Ò – ó – o – o (ta thấy bốn chữ o tức gà gáy bốn tiếng). Đó là tiếng gáy thường nhất của giống gà.
Trái lại, “thần kê” gáy từ bảy tám tiếng trở đi:
Ò – ó – o – o – o – o – o (7 tiếng, những tiếng o nhỏ là tiếng giật).
+ Gà gáy 5 tiếng là gà có tài (Ò – ó – o – o – o ).
+ Gà gáy ba tiếng, tiếng gáy như vậy không tốt, biểu lộ sự kém cỏi ( Ò – ó – o ).
2) Số âm thanh:
Âm thanh gà gáy trầm bổng khác nhau, nhiều giọng khác nhau.
Tiếng cuối cùng là âm thanh hạ thấp nhất, không tốt, đa số dở. Thí dụ : ò – ó – o – ò 4 tiếng (thấp, cao, vừa, thấp).
Tiếng cuối cùng là âm thanh vừa, gà ấy hay dở tùy con. Thí dụ : ò – ó – o – o 4 tiếng (thấp, cao, vừa, vừa).
Tiếng cuối cùng được kéo dài, trong đó có 2 âm thanh thứ nhất là “vừa” và thứ hai là “thấp”, dứt khoát gà ấy không nên dùng, tuy bền. Thí dụ: ò – ó – o o oò 4 tiếng (thấp, cao, vừa, vừa kéo dài xuống thấp).
+ Nếu muốn biết âm thanh cuối cho rõ, ta lấy âm thanh cuối so với âm “vừa” thứ ba, nếu cuối cao hơn “vừa” là cao, thấp hơn “vừa” là thấp, bằng “vừa” là trung bình.
+ Gà gáy, tất cả tiếng đều to cùng nhau là tốt.
Âm minh trường: là con gà gáy tiếng cuối cùng, kéo dài đến hết hơi, gà ấy gan, nhưng kém tài.
Âm minh đoản: là con gà gáy tiếng cuối cùng ngắt, ngắn ngủn, gà ấy có vẻ gắt gao, gan dạ, tài ba.
Âm minh trung: gáy tiếng cuối không dài cũng không ngắn, gà ấy “văn võ song toàn”, được mọi mặt.
Âm minh thủ đoản: gáy tiếng cuối ngắn, toàn tiếng gáy có vẻ rít nghe tựa tiếng gà tre, báo hiệu gà có biệt tài (gà độc) nhưng phải đều tiếng.
Âm minh hùng đoản: gáy tiếng cuối ngắn, toàn tiếng gáy to, ồ, gà ấy bền bỉ, gan dạ, có tài đá đòn.
Âm minh thư trường: tiếng cuối kéo dài, toàn tiếng như gà tre, ấy là gà kém.
Âm minh hùng trường: tiếng cuối kéo dài, toàn tiếng gáy to, ồ, không nét . Gà này có thể đòn tốt, bền nhưng không độc, đá kém hay.
+ Khi gà gáy miệng phải mở rộng mới có triển vọng, trái lại, lúc gáy mỏ khép kín, gà không khá.
+ Khi gáy mỏ dưới rung ít thì tốt, rung nhiều thì xấu, không rung càng quý.
+ Tiếng gáy không đều, chỗ to chỗ nhỏ, gà này chóng mệt, bở sức, kém bền.
+ Gà gáy 4 hay 5 tiếng, nhưng ngắt từng âm thanh rõ ràng, đó là gà hay, trái lại tiếng gáy không phân rõ âm thanh, là tiếng gà thường tài.
+ Ban đêm gà gáy đúng giờ, gà ấy có đòn tài, đòn độc, “quý tướng”, thường trổ những đòn ấy vào những nước nhất định.
– TIẾNG RÍT: hay rít là gà dữ, “âm minh phụ”. Gà rít to, mở rộng miệng thì tốt, nếu rít nhỏ trong miệng, thì phải kéo dài mới tốt.
– Song phụ âm minh và tam phụ âm minh: rít hai hay ba tiếng một lúc là gà độc, có tài lắm, miệng mở rộng rít tiếng lớn, gắt gao như heo rít.
Nếu “song phụ” và “tam phụ” được kèm theo những tiếng rít ngắn sau, đó là “linh kê” gà quý, đích thị chẳng sai.
+ Gà nào khi gáy, cổ gân lên, vẹo lệch không thẳng, đòn đá cũng kém ngay. Gáy mà cần cong, vẹo qua lại như rắn, con ấy kém bền.
– Gà ngọc: khi gà gáy ban đêm, ta nhìn trong miệng, thấy hơi sáng, nên có tục gọi là “gà ngậm ngọc”, dĩ nhiên là phải quý rồi, nó là “linh kê”.
– Gà túc: khi ta bắt, hoặc đụng đến mình nó, thì gà này kêu túc túc giòn tai, lại khi đang ra trưởng đá, bất kỳ ở hiệp nào, lúc vô nước, gà vẫn kêu túc túc tựa như gà kêu con, con này chiến lắm, thuộc loại “chiến kê”.
– Gà trữ thực tả: thường thì bầu diều gà nằm bên phải, trái lại gà này ngược đời, có bầu diều nằm bên trái, ấy là “chiến kê”.
Tóm lại, khi gáy cần cổ nên ngay thẳng, phát ra âm thanh rõ rệt, to lớn, gọn gàng, ngắt quãng, hơi rè khan, được thổi mạnh từ trong miệng phát ra ngoài, và khi dứt cũng ngắt gọn, ấy là tiếng gáy hoàn hảo, báo hiệu đó là một “chiến kê”.